Tìm kiếm thông tin
Đơn vị hỗ trợ
Kỹ thuật phòng trừ chuột hại lúa
Ngày cập nhật 27/05/2024

I. Đặc điểm sinh học và gây hại

Ở Việt Nam, theo điều tra có tới 30 loài chuột khác nhau; gồm nhóm chuột đồng, chuột rừng, chuột nhà; trong đó, nhóm chuột đồng có 5 – 12 loại là gây hại chủ yếu gây hại cây trồng trên đồng ruộng. Nhìn chung, thời gian sống của chuột trung bình kéo dài khoảng 1 năm, trong đó chuột cái sống lâu hơn chuột đực.

1. Thức ăn:

Chuột là loại ăn tạp, thức ăn chủ yếu là thực vật xanh, ngũ cốc; ngoài ra, chuột còn ăn cả cá con, ốc sên, ốc bươu vàng, cua,… Đặc trưng cơ bản của chuột là có răng cửa rất mạnh và có khuynh hướng mọc dài do đó để mài răng trong nhiều trường hợp, chuột cắn phá nhiều hơn là ăn

Do đó, các loại vật liệu dùng làm mồi phải hấp dẫn chuột mà trên ruộng không có và cần thay đổi để tránh nhàm chán; trong thời kỳ dư thừa thức ăn hoặc thức ăn ưa thích của chuột (như lúa đòng – chín) chuột ăn bả, thuốc giảm và ngược lại.

2. Đặc điểm sinh học:

- Chuột rất thính tai, có khả năng cảm nhận mùi, vị rất tốt và có tính đa nghi nên hay nghi ngờ chỗ lạ, thức ăn lạ, mùi lạ. Do đó, khi đặt bẫy cần đặt sát chân tường, bờ ruộng, trên đường mòn quen thuộc chuột hay đi lại; khi tổ chức đánh bả, cần cho chuột ăn mồi không có thuốc độc trước 2 - 3 ngày, rồi sau đó mới trộn thuốc vào bả để tránh hiện tượng “nhát bả”; dùng muỗng để lấy bả, thuốc thay cho dùng tay trần vì hơi người có thể lưu lại, hoặc bẫy sau khi bắt chuột cần được làm sạch mùi; các dùng vật liệu để lót bả, thuốc đồng nhất với môi trường

- Chuột thường sống trong hang, dưới đất, nhất là ở bờ ruộng lúa, vào giai đoạn đòng – trổ và trong khi mang thai, sinh sản, chuột mẹ không ra ngoài kiếm ăn khoảng 10 – 15 ngày, lúc này biện pháp như đào bắt có hiệu quả, nhưng khi lúa trỗ - chín, chuột rời hang, vào sống trong ruộng, nhiều khi làm tổ trên cây lúa; do đó, các biện pháp như đào bắt, bẫy ở giai đoạn này hiệu quả kém.

- Chuột bơi lội giỏi, nhưng không thích nước; do đó, năm nào hạn nặng, năm đó chuột nhiều, những ruộng nhiều nước chuột ít hoạt động.

- Khi mật độ chuột quá cao, một thời gian sau mật độ giảm chủ yếu chuột do chuột di cư, nhưng sau một đợt diệt chuột mật độ chuột có xu hướng gia tăng tái lập quần thể.

3. Gây hại:

- Chuột chủ yếu hoạt động và gây hại vào ban đêm; trên ruộng, chuột phá hại vào bất cứ giai đoạn nào của cây lúa, nếu bị hại sớm, lúa có thể phục hồi, tạo ra dảnh mới nhưng hại nặng nhất vào giai đoạn đòng – trổ, lúc này chúng ăn đòng non (có vị ngọt) hay cắn ngang lúa, ăn hạt.

II. BIỆN PHÁP PHÒNG, CHỐNG

1. Xác định thời điểm tổ chức các đợt diệt chuột:

a)  Phòng chống chuột được tiến hành đồng loạt, thường xuyên, liên tục theo từng đợt và đều khắp. Tập trung vào những đợt:

- Giai đoạn chuyển tiếp giữa các vụ sản xuất (khi đồng trắng), tốt nhất ở thời kỳ đổ ải, làm đất.

- Sau trận mưa lớn; các trận lũ lụt chuột di chuyển còn đang sống co cụm ở những nơi đất cao.

- Từ đầu đến giữa vụ sản xuất; đối với cây lúa sử dụng các biện pháp phòng chống vào trước trước kỳ mang đòng, riêng biện pháp đào hang bắt chuột thời kỳ này có hiệu quả vì chuột cái đẻ - nuôi con.

b) Phòng trừ chuột hại trong suốt cả vụ bằng bẫy hàng rào cản và bẫy cây trồng.

2. Các biện pháp kỹ thuật phòng chống chuột:

2.1. Biện pháp canh tác:

- Vệ sinh đồng ruộng: Phát quang bờ bụi, làm sạch cỏ ven bờ, tìm và phá ổ chuột ngay từ đầu vụ, thu dọn rơm rạ sau thu hoạch để hạn chế nơi cư trú của chuột.

- Thời vụ: Cần xác định thời vụ thích hợp, ở những vùng thường bị chuột hại nặng cần gieo trồng và thu hoạch đồng loạt. Cắt đứt nguồn thức ăn để chúng phải đói và khi gặp mồi chúng không thể không ăn

- Nếu có thể, giữ mức nước cao trong ruộng vào giai đoạn đòng – trổ để hạn chế chuột hại hoặc làm tổ ven bờ.

2.2. Biện pháp vật lý, cơ học

- Biện pháp sử dụng các bẫy cơ học như bẫy kẹp, bẫy lồng, bẫy dây, bẫy bán nguyệt, bẫy ống tre, bẫy lật, bẫy di động, …

Yêu cầu bẫy phải nhậy;

- Đặt bẫy nơi cửa hang, cạnh hoặc vuông góc với đường đi, nơi có nhiều chuột hoạt động, rắc thêm vật liệu tương tự nơi đặt bẫy chỉ để lộ mồi để tránh sự phát hiện nhậy bén của chuột, nếu bẫy dùng mồi có thể đặt mồi vài ba ngày cho chúng ăn quen mới lắp bẫy; nên đặt bẫy mồi trước khi mặt trời lặn và thu bẫy vào ban sáng.

- Sau khi bắt được chuột, bẫy cơ học cần được xử lý bằng nước sôi hoặc ngâm nước, phơi khô mới dùng lại vì chuột rất nhạy cảm với mùi đồng loại bị mắc bẫy.

- Tìm kiếm các hang, ổ của chuột để đào, đổ nước (nếu gần nguồn nước, đất thịt), hun khói hoặc soi đèn, dùng chó bắt chuột.

- Dùng rào cản bao quanh ruộng hoặc bẫy hàng rào cản;

- Chất chà diệt chuột tại một số vùng có điều kiện, chà làm bằng cành lá cây, … làm nơi ẩn lấp cho chuột vào cuối mùa nước ngập; trong đó, có bổ sung thức ăn cho chuột sau 10 - 15 ngày, bao lưới chà và tiến hành bắt chuột, đến khi chuột giảm dần thì dỡ bỏ chà chuột.

- Các biện pháp trên kết hợp với việc thu mua đuôi chuột; tuyệt đối không sử dụng điện để diệt chuột.

2.3. Biện pháp sinh học

- Khuyến khích và hỗ trợ nông dân nuôi mèo để diệt chuột.

- Nuôi và huấn luyện chó săn chuột nhằm giúp nông dân phát hiện những hang có chuột.

- Nghiêm cấm săn bắt các loại động vật là thiên địch của chuột như rắn, chim cú mèo, chim cú lợn…

2.4. Biện pháp sử dụng các loại bả sinh học, thuốc diệt chuột

Nguyên tắc:

- Sử dụng bả, thuốc trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam. Ưu tiên sử dụng các loại thuốc ít độc hại với người, vật nuôi và môi trường; chỉ dùng thuốc hóa học khi chuột phá hại mạnh và tuân thủ nghiêm ngặt an toàn.

- Đọc kỹ hướng dẫn trước khi sử dụng, sử dụng theo nguyên tắc 4 đúng.

- Trước khi đánh bả độc cần thông báo rộng rãi cho dân chung quanh vùng biết, cần phải nhốt gia súc, gia cầm cho tới khi vệ sinh sạch sẽ nơi đặt mồi, thu nhặt chuột chết.  

a) Bả diệt chuột sinh học, BIORAT:

- Là sản phẩm của thuốc chống đông máu và vi khuẩn Salmonella entiriditis với mồi bằng lúa hấp, hoặc lúa nẩy mầm. Hiệu quả diệt chuột cao, một số chuột trong đàn không ăn cũng bị chết do lây nhiễm qua phân, nước tiểu của những con chết

- Lượng 2,5 - 3 kg/ha, đặt ở cửa hang và lối đi lại, bờ đê, mương, gò, cồn, vườn cây, … hình thành thế bao vây phong toả. Bả được đặt vào buổi chiều tối, không để ánh sáng chiếu trực sạ và liên tục trong 2 – 4 đêm; mỗi mô 5-10 gr, cách nhau khoảng từ 2 - 5 m hoặc 25gr - 50 gr và cách nhau 4 – 7 m đối với bả Biorat.

- Hiệu lực của bả liên quan chặt đến bảo quản: Nên khi mở gói bả ra thì nên dùng hết một lần, nếu để dành sẽ mất hiệu lực. Ở nhiệt độ 0°C - 15°C, bảo quản được 6 tháng, còn ở nơi thoáng mát (<30°C) là 28 ngày.

b) Nhóm thuốc chống đông máu:

- Khi đi vào cơ thể chuột sẽ gây hiện tượng xuất huyết toàn thân, xù lông và chết sau 4-5 ngày. Thuốc không có mùi, gây chết chậm, chuột không chết tại chỗ nên không gây chán bả đối với chuột, hiệu quả diệt trừ cao, ít độc hơn so với nhiều loại thuốc hoá học.

- Bả được đặt tập trung ở những ruộng ven làng, gò đồng, nghĩa địa, đường bờ mương lớn, nơi cây trồng bị hại hoặc gần những nơi có thức ăn của chuột. Rải bả vào xế chiều, kết thúc trước khi trời tối, trời không mưa, hoặc gói bả vào túi nilon nhỏ (hở một đầu) để tránh rửa trôi thuốc do mưa, sương.

- Loại cần trộn với mồi làm bả: Như Ran part 2%DS, Rát-K 2% D, … dùng 1kg thuốc trộn với 25-30kg mồi là thóc ủ mầm hoặc thóc luộc để ráo (được 45 – 50kg mồi). Sử dụng trung bình 1 lạng bả đặt thành 5-7 phần cho 1 sào Bắc bộ hoặc 1 hộ trong khu dân cư.

- Loại thuốc sử dụng trực tiếp mà không cần trộn với mồi: Như thuốc Storm vỉ 4 viên, …

- Bả được đặt cách nhau 10-50m, mỗi nơi 1 - 2 viên; sau 7 ngày kiểm tra các điểm đặt bả 1 lần để bổ sung bả ở các nơi chuột đã ăn. Thường chỉ cần 2 -3 lần đặt bả cho mỗi đợt diệt chuột

c) Thuốc hóa học chứa hoạt chất Bromadiolone, Coumatetralyl:

- Như thuốc Fokeba 0.005RB, Kingcat 0.05RB, Raccumin 0.75TP trộn với mồi như gạo tấm, cùi dừa, khoai mì thêm ít dầu thực vật, nhất là mồi làm từ lúa mộng và sáp trộn thức ăn gia súc,.… theo tỷ lệ 1 kg thuốc trộn với 50 kg mộng mạ.

- Bả được chia thành phần nhỏ, đặt 150 – 200 bả/ha ở dưới bờ ruộng, xa bờ khoảng 1 mét, cứ cách 10 mét đặt một bả. Thuốc chỉ dùng 1 lần/vụ trước khi dùng thuốc phải đánh nhử bằng mồi không thuốc.

3. Xác định số lượng chuột trước và sau khi diệt:

- Hiện nay có rất nhiều phương pháp xác định số lượng chuột tuy nhiên để thực hiện trên đồng ruộng có các phương pháp sau:

a) Dùng bẫy: Bẫy đặt theo hàng, bẫy nọ cách bẫy kia 5 – 10 m hay theo hình bàn cờ cách nhau 10 – 20 m; trong nhà hoặc kho đặt 15 – 20 m2/bẫy.

Chỉ số phong phú chuột (%) = (số chuột bắt được/tổng số bẫy/đêm) x 100.

b) Phương pháp xác định lượng mồi tiêu thụ 

Đặt một lượng mồi xác định, sau đó xác định lượng mồi chuột đã ăn, chia cho lượng ăn bình quân trong một ngày đêm sẽ biết được số lượng chuột. Phương pháp này có độ chính xác không cao vì lượng thức ăn của các cá thể ở độ tuổi khác nhau, trạng thái cơ thể khác nhau là khác nhau.

c) Phương pháp đếm vết chân, vết đuôi

Thông thường khi hoạt động trên nền đất mềm chuột thường để lại vết chân hoặc vết đuôi. Có thể xác định rõ số lượng vết chân để lại trên nền đất trong một đêm. Bẫy có kích thước 30 x 30 cm, trên bôi lớp bùn, đặt vào chiều tối và thu vào sáng sớm 4 tối liên tục, thay bùn hàng tối; mỗi hàng đặt 10 – 15 cái, bẫy nọ cách bẫy kia 10 – 15 m hay theo hình bàn cờ cách nhau 10 – 20 m

Tỷ lệ bẫy có dấu chân (%) = (số bẫy có hiệu quả/tổng số bẫy/đêm) x 100.

d) Phương pháp đếm vết chuột phá hại

Đếm các cây lúa, cây ngô hay cây đậu tương bị hại trên một ruộng, vết cắn trên cửa, lượng trấu trong kho trong một thời gian có thể xác định được mật độ tương đối của chuột./.

Bá Phú - Trung tâm DVNN
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Truy câp tổng 8.734.238
Truy câp hiện tại 2.538