Tìm kiếm thông tin

 

Chung nhan Tin Nhiem Mang

Những văn bản có hiệu lực trong tháng 9/2013
Ngày cập nhật 04/10/2013

Những văn bản có hiệu lực trong tháng 9/2013: Đến năm 2015, hoàn thiện Luật Quy hoạch;Đo lường sự hài lòng của người dân đối với giáo dục công; Điều kiện chuyển đổi mục đích sử dụng nhà ở thương mại; Giảm lãi suất cho vay tín dụng xuất khẩu còn 8,7%; Công trình xây dựng dùng vốn ngân sách phải trình thẩm tra thiết kế; 5 nội dung không thuộc trách nhiệm giải trình của cơ quan Nhà nước; Quy định dự toán đầu tư công trình xây dựng nông thôn mới; Trích tối thiểu 8% nguồn thu học phí cho quỹ học bổng; Miễn học phí cho con của sĩ quan, chiến sĩ công an...

Đến năm 2015, hoàn thiện Luật Quy hoạch

Đây là một trong những nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ đề ra cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành, địa phương có liên quan tại Quyết định số 1615/QĐ-TTg ngày 17/09/2013 phê duyệt Đề án nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý Nhà nước đối với công tác quy hoạch.

Ngoài yêu cầu đến hết năm 2015 phải xây dựng, trình Quốc hội xem xét ban hành Luật Quy hoạch có phạm vi điều chỉnh chung cho các loại quy hoạch phát triển trên phạm vi cả nước, Thủ tướng Chính phủ còn đặt ra một số nhiệm vụ nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch và quản lý Nhà nước về quy hoạch phát triển cho Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng và các Bộ, ngành có liên quan.

Cụ thể như: Tiếp tục hoàn thiện Luật Đất đai, xác định rõ vai trò của quy hoạch sử dụng đất trong việc phân vùng chức năng sử dụng đất theo không gian; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch đô thị đảm bảo tính thống nhất với văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh chung về công tác quy hoạch; rà soát hoàn thiện các quy định về quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực trong các Luật chuyên ngành…

Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.

Đo lường sự hài lòng của người dân đối với giáo dục công

Ngày 17/09/2013, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký Quyết định số 3982/QĐ-BGDĐT phê duyệt Đề án "Xây dựng phương pháp đo lường sự hài lòng của người dân đối với dịch vụ giáo dục công”.

Với mục tiêu đánh giá một cách khoa học và khách quan chất lượng dịch vụ của các cơ sở giáo dục công; từ đó, các cơ quan quản lý và các cơ sở giáo dục nắm bắt được nhu cầu, mong muốn của người dân để có những biện pháp cải tiến, nâng cao chất lượng phục vụ đáp ứng sự hài lòng của người dân, Đề án đặt ra nhiệm vụ là phải xác định được các nội dung, tiêu chí, chỉ số đo lường; xây dựng phương pháp đo lường, bộ công cụ khảo sát sự hài lòng của người dân với dịch vụ giáo dục công và công bố bộ chỉ số đo lường sự hài lòng của người dân đối với dịch vụ giáo dục công.

Phạm vi của Đề án là đo lường sự hài lòng của người dân đối với dịch vụ giáo dục công ở các cấp học, trình độ đào tạo như: giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, giáo dục thường xuyên, giáo dục chuyên nghiệp và giáo dục đại học trên phạm vi cả nước (không bao gồm các chương trình dạy nghề), với đối tượng khảo sát là học sinh, sinh viên và đại diện gia đình người học.

Nôi dung đo lường sẽ tập trung trên 05 nội dung cơ bản tạo nên chất lượng dịch vụ giáo dục công, bao gồm: Tiếp cận dịch vụ (như thủ tục khi nhập học, chuyển cấp, ra trường; tiếp cận thông tin; chi phí và chính sách hỗ trợ tài chính); cơ sở vật chất, trang thiết bị (như phòng học, phòng chức năng, thư viện...); môi trường giáo dục (như tính công bằng, minh bạch, công khai, an toàn...); hoạt động giáo dục (như nội dung, chương trình giáo dục; đội ngũ giáo viên, nhân viên...); kết quả giáo dục (như kết quả học tập; khả năng thích ứng của người học...)

Theo đó, bộ câu hỏi điều tra xã hội học được xây dựng trên cơ sở 05 nội dung trên, phù hợp với từng cấp học, trình độ đào tạo và được thống nhất ở 5 mức: “rất không hài lòng”, “không hài lòng”, “bình thường”, “hài lòng” và “rất hài lòng”.

Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.

Điều kiện chuyển đổi mục đích sử dụng nhà ở thương mại

Ngày 13/09/2013, Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã ban hành Quyết định số 859/QĐ-BXD công bố 02 thủ tục hành chính mới về “điều chỉnh cơ cấu căn hộ nhà ở thương mại hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng từ nhà ở thương mại sang nhà ở xã hội hoặc công trình dịch vụ”.


Trong đó, đáng chú ý là quy định về điều kiện chuyển đổi dự án nhà ở thương mại sang công trình dịch vụ, cụ thể như: Chủ đầu tư các dự án phát triển nhà ở thương mại, dự án đầu tư xây dựng khu đô thị được chuyển đổi các khối nhà chung cư và nhà ở thương mại thấp tầng sang làm công trình dịch vụ phải đảm bảo phù hợp với quyết định phê duyệt cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng nhà ở thương mại của Chủ tịch UBND cấp tỉnh và phải đảm bảo theo đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn tối thiểu, thực hiện việc quản lý, khai thác, sử dụng công trình sau khi đầu tư xây dựng theo đúng quy định do cơ quan có thẩm quyền ban hành)… Trường hợp các dự án đã nộp tiền sử dụng đất thì được Nhà nước hoàn trả lại số tiền đã nộp hoặc được khấu trừ vào nghĩa vụ tài chính mà chủ đầu tư dự án phải nộp cho Nhà nước trên cơ sở tính toán lại tiền sử dụng đất của dự án sau khi đã điều chỉnh.

Cũng theo Quyết định này, việc chuyển đổi mục đích sử dụng nhà ở thương mại sang làm nhà ở xã hội hoặc công trình dịch vụ chỉ được thực hiện với các hạng mục công trình xây dựng và căn hộ (kể cả cao tầng và thấp tầng) mà chủ đầu tư chưa ký hợp đồng góp vốn, hợp đồng mua bán với khách hàng. Trường hợp đã ký các hợp đồng góp vốn, hợp đồng mua bán với khách hàng thì trước khi chuyển đổi mục đích sử dụng phải được sự đồng ý của tất cả các khách hàng đã ký hợp đồng.

Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.

Tổ chức ngày Quốc tế Hạnh phúc (20/03) hàng năm

Ngày Quốc tế Hạnh phúc (20/03) được công bố tại một hội nghị của Liên hiệp quốc từ tháng 6/2012. Đến nay, đã có 193 quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam cùng cam kết ủng hộ ngày này. Ngày 12/09/2013 vừa qua, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phê duyệt Đề cương Đề án “Tổ chức các hoạt động nhân ngày Quốc tế Hạnh phúc 20 tháng 03 hàng năm” tại Quyết định số 3138/QĐ-BVHTTDL.

Đề án này hướng tới mục tiêu xây dựng và ban hành văn bản về việc hưởng ứng ngày Quốc tế Hạnh phúc; 100% Bộ, ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội, UBND các cấp chỉ đạo, tổ chức các hoạt động thiết thực hưởng ứng ngày Quốc tế Hạnh Phúc; huy động các nguồn lực xã hội trong việc tạo hạnh phúc cho gia đình, mọi người dân trong cộng đồng và xã hội…

Theo đó, trong giai đoạn từ năm 2014 – 2020, ngày Quốc tế Hạnh phúc sẽ được tổ chức kỷ niệm tại Việt Nam với các hoạt động cụ thể như: tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của mọi người về hạnh phúc; đảm bảo an sinh xã hội; vận động toàn xã hội tham gia, hưởng ứng các hoạt động nâng cao đời sống vật và tinh thần cho cá nhân, công đồng; các hoạt động từ thiện, tương thân, tương ái, giúp đỡ người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, người gặp rủ ro bởi thiên tai, tai nạn...; vận động toàn xã hội tham gia, hưởng ứng các hoạt động bảo vệ môi trường, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; xây dựng, thí điểm và nhân rộng mô hình gia đình hạnh phúc, cộng đồng hành phúc trên cơ sở bộ chỉ số đánh giá hạnh phúc của người Việt Nam.

Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký

Sửa đổi, bổ sung 20 thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch, trợ giúp pháp lý

Ngày 09/09/2013, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 2258/QĐ-BTP về việc sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch, trợ giúp pháp lý thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp.

Theo Quyết định này, có 20 thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch, trợ giúp pháp lý được sửa đổi, bổ sung, bao gồm 04 thủ tục hành chính cấp xã; 10 thủ tục hành chính cấp tỉnh và 06 thủ tục hành chính cấp xã. Trong đó, có các thủ tục hành chính quan trọng như: Đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài tại cơ quan đại diện; cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho công dân Việt Nam trong thời gian cư trú ở nước ngoài tại cơ quan đại diện; đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam; đăng ký hoạt động của Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; đăng ký kết hôn trong nước; đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới…

Quyết định cũng quy định về nội dung cụ thể của từng thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung và các mẫu biểu kèm theo.

Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký

Giảm lãi suất cho vay tín dụng xuất khẩu còn 8,7%

Ngày 03/09/2013, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 126/2013/TT-BTC về việc sửa đổi Thông tư 77/2013/TT-BTC ngày 04/06/2012 về việc quy định lãi suất cho vay tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước và mức chênh lệch lãi suất được tính hỗ trợ sau đầu tư.

Theo đó, lãi suất cho vay tín dụng xuất khẩu của Nhà nước bằng đồng Việt Nam là 8,7%/năm thay vì mức lãi suất 9,3% như quy định của Thông tư 77/2013/TT-BTC. Mức lãi suất mới này được áp dụng với các khoản giải ngân vốn tín dụng xuất khẩu của Nhà nước từ ngày 03/09/2013.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.

Công trình xây dựng dùng vốn ngân sách phải trình thẩm tra thiết kế

Đây là quy định của Thông tư 13/2013/TT-BXD được Bộ Xây dựng ban hành ngày 15/08/2013, quy định về thẩm tra, thẩm định và phê duyệt thiết kế xây dựng công trình.

Theo đó, các công trình được quy định tại Khoản 1 Điều 21 của Nghị định 15/2013/NĐ-CP có sử dụng toàn bộ hoặc một phần vốn ngân sách nhà nước, công trình sử dụng vốn có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước, công trình đầu tư bằng vốn xây dựng cơ bản tập trung, công trình được đầu tư theo hình thức xây dựng - chuyển giao, xây dựng - kinh doanh - chuyển giao… thì chủ đầu tư phải trình cơ quan chuyên môn về xây dựng thẩm tra thiết kế với các nội dung như: Điều kiện năng lực hoạt động xây dựng của các tổ chức, cá nhân thực hiện khảo sát, thiết kế; sự phù hợp của thiết kế với các quy chuẩn kỹ thuật, các tiêu chuẩn chủ yếu áp dụng cho công trình; mức độ đảm bảo an toàn chịu lực của các kết cấu chịu lực của công trình; sự phù hợp của thiết kế để đảm bảo tiết kiệm chi phí trong xây dựng công trình…

Đối với công trình không sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, chủ đầu tư tiến hành trình cơ quan chuyên môn về xây dựng thẩm tra thiết kế như quy định trên hoặc có thể chỉ định tổ chức tư vấn, cá nhân đủ điều kiện thẩm tra thiết kế với 03 nội dung: Điều kiện năng lực hoạt động xây dựng của các tổ chức, cá nhân thực hiện khảo sát, thiết kế; sự phù hợp của thiết kế với các quy chuẩn kỹ thuật, các tiêu chuẩn chủ yếu áp dụng cho công trình; mức độ đảm bảo an toàn chịu lực của các kết cấu chịu lực của công trình và các yêu cầu về an toàn khác.

Thông tư này cũng chỉ rõ, thời gian thẩm tra đối với các công trình xây dựng cấp đặc biệt, cấp I là không quá 40 ngày làm việc; đối với công trình thiết kế một bước và nhà ở riêng lẻ là không quá 20 ngày làm việc và đối với các công trình còn lại là không quá 30 ngày làm việc.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 30/09/2013.

Lập Hội đồng Thuốc và điều trị trong tất cả các bệnh viện

Đây là yêu cầu của Bộ Y tế khi ban hành Thông tư số 21/2013/TT-BYT về việc quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Thuốc và điều trị trong bệnh viện (sau đây gọi là Hội đồng).

Theo Thông tư này, Bộ Y tế yêu cầu Hội đồng phải được thành lập ở tất cả bệnh viện, do Giám đốc bệnh viện ra quyết định thành lập; hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm với ít nhất 05 thành viên trở lên. Hội đồng họp định kỳ hai tháng 1 lần hoặc đột xuất do Chủ tịch Hội đồng triệu tập để giải quyết các vấn đề phát sinh giữa các kỳ họp định kỳ của Hội đồng.

Hội đồng có chức năng tư vấn cho giám đốc bệnh viện về các vấn đề liên quan đến thuốc và điều trị bằng thuốc của bệnh viện, thực hiện tốt chính sách quốc gia về thuốc trong bệnh viện; tập trung vào nhiệm vụ xây dựng các quy định cụ thể về: Các tiêu chí lựa chọn thuốc để xây dựng danh mục thuốc bệnh viện; lựa chọn các phác đồ điều trị làm cơ sở cho việc xây dựng danh mục thuốc; các tiêu chí để lựa chọn thuốc trong đấu thầu mua thuốc; sử dụng thuốc biệt dược và thuốc thay thế trong điều trị...

Trong đó, việc xây dựng danh mục thuốc trong bệnh viện phải đảm bảo các nguyên tắc như: Phải phù hợp với mô hình bệnh tật và chi phí về thuốc dùng điều trị trong bệnh viện; phù hợp về phân tuyến chuyên môn kỹ thuật; ưu tiên thuốc sản xuất trong nước; ưu tiên lựa chọn thuốc ở dạng đơn chất... 

Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 22/09/2013; bãi bỏ Thông tư số 08/BYT-TT ngày 04/07/1997 và Mục 9 Phần III Quy chế bệnh viện ban hành kèm theo Quyết định số 1895/1997/QĐ-BYT ngày 19/09/1997.

5 nội dung không thuộc trách nhiệm giải trình của cơ quan Nhà nước

Ngày 08/08/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2013/NĐ-CP quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Theo Nghị định này, các cơ quan hành chính Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc cơ quan hành chính Nhà nước và người có thẩm quyền có trách nhiệm giải trình đối với những nội dung liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác khi các tổ chức, cá nhân đó yêu cầu; ngoại trừ các nội dung, thông tin liên quan đến bí mật Nhà nước; liên quan đến việc
chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong nội bộ cơ quan Nhà nước; thuộc bí mật đời tư, bí mật kinh doanh và các nội dung đã được giải trình.

Các yêu cầu giải trình sau 90 ngày kể từ ngày cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận được hoặc biết được quyết định, hành vi của cơ quan Nhà nước tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình cũng không thuộc phạm vi trách nhiệm giải trình của cơ quan có thẩm quyền.

Nghị định cũng chỉ rõ, người giải trình là người đứng đầu cơ quan Nhà nước hoặc được người đứng đầu ủy quyền thực hiện việc giải trình có trách nhiệm cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về nhiệm vụ được giao và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ đó. Đối với những yêu cầu giải trình trực tiếp có nội dung đơn giản, người giải trình có thể thực hiện giải trình trực tiếp và người yêu cầu giải trình ký hoặc điểm chỉ xác nhận vào biên bản thực hiện việc giải trình. Đối với những yêu cầu giải trình khác, sau khi tiến hành nghiên cứu nội dung yêu cầu, làm việc trực tiếp với người yêu cầu để làm rõ những nội dung liên quan khi cần thiết, người giải trình phải ban hành và gửi văn bản giải trình đến người yêu cầu.

Thời hạn thực hiện việc giải trình không quá 15 ngày kể từ ngày ra thông báo tiếp nhận yêu cầu giải trình; trường hợp có nội dung phức tạp thì có thể gia hạn thời gian giải trình nhưng không quá 15 ngày.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 30/09/2013.

Chậm nhất ngày 10 hàng tháng, ban hành Thông cáo báo chí VBQPPL của Chính phủ

Ngày 07/08/2013, Bộ Tư pháp đã ra Thông tư số 12/2013/TT-BTP quy định quy trình ra thông cáo báo chí về văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành.

Thông tư này quy định, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày VBQPPL của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (trừ VBQPPL có nội dung thuộc bí mật Nhà nước) được ký ban hành, cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm gửi thông tin về văn bản đến Bộ Tư pháp bằng hình thức công văn và thư điện tử. Bộ tư pháp có trách nhiệm tổng hợp, biên tập nội dung, xây dựng và ban hành Thông cáo báo chí chậm nhât vào ngày 10 hàng tháng đối với các VBQPPL được ban hành vào tháng trước. Riêng các VBQPPL có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký, Bộ Tư pháp phải ban hành Thông cáo báo chí trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày nhận được thông tin do cơ quan chủ trì soạn thảo cung cấp.

Đồng thời, Bộ Tư pháp phải đăng tải Thông cáo báo chí trên Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, Báo Pháp luật Việt Nam điện tử ngay sau khi ký ban hành; Văn phòng Chính phủ đăng tải Thông cáo báo chí trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Báo Điện tử Chính phủ ngay sau khi nhận được Thông cáo báo chí do Bộ Tư pháp gửi đến.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 23/09/2013

Quy định dự toán đầu tư công trình xây dựng nông thôn mới

Ngày 07/08/2013, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư 03/2013/TT-BKHĐT hướng dẫn thực hiện Quyết định 498/QĐ-TTg ngày 21/03/2013 của Thủ tướng Chính phủ bổ sung cơ chế đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020; trong đó, hướng dẫn về quy trình lập, thẩm định, phê duyệt dự toán công trình quy mô vốn đầu tư dưới 3 tỷ đồng, có sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, kỹ thuật đơn giản và áp dụng thiết kế mẫu, thiết kế điển hình, công trình nằm trên địa bàn thôn, bản, ấp…

Thông tư này quy định sau khi thông báo, phổ biến đến thôn và cộng đồng dân cư về cơ chế đầu tư đặc thù trên địa bàn, Ban Quản lý xã cử cán bộ chuyên môn phối hợp với thôn và Ban Phát triển thôn tiến hành lập dự toán đầu tư công trình với các nội dung như: Tên công trình, mục tiêu đầu tư, địa điểm xây dựng, chủ đầu tư, quy mô công trình; giá trị dự toán; bản vẽ thi công công trình (nếu có)…. Sau khi lập dự toán, thôn và Ban Phát triển thôn tổ chức họp dân, lấy ý kiến của người dân trong thôn, thống nhất về các nội dung của dự toán và các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân.

Để thẩm định dự toán đầu tư công trình, UBND xã thành lập Tổ thẩm định với thành phần gồm lãnh đạo UBND xã, đại diện Ban giám sát đầu tư của cộng đồng xã, tài chính - kế toán xã, chuyên gia hoặc những người có trình độ chuyên môn do cộng đồng bình chọn. Thời gian thẩm định và báo cáo kết quả thẩm định không quá 10 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ trình thẩm định hợp lệ.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/09/2013

Thẩm định viên về giá phải có tối thiểu 3 năm kinh nghiệm

Đây là một trong những tiêu chuẩn bắt buộc được Chính phủ đề ra tại Nghị định số 89/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật giá về thẩm định giá.

Theo đó, thẩm định viên về giá phải đáp ứng đủ 06 tiêu chuẩn sau: Có phẩm chất đạo đức, trung thực, khách quan; có bằng tốt nghiệp đại học trở lên chuyên ngành vật giá, thẩm định giá và các ngành liên quan; có thời gian công tác thực tế theo chuyên ngành đào tạo từ 36 tháng trở lên tính từ ngày có bằng tốt nghiệp đại học; có Chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ thẩm định giá do cơ quan có thẩm quyền cấp trừ trường hợp đã có bằng tốt nghiệp đại học trở lên về chuyên ngành vật giá, thẩm định giá hoặc đã tốt nghiệp đại học các ngành liên quan đến nghiệp vụ thẩm định giá và đã có bằng tốt nghiệp cao đẳng chuyên ngành thẩm định giá; có Thẻ thẩm định viên về giá do Bộ Tài chính cấp.

Đối với các doanh nghiệp thẩm định giá, Chính phủ cũng quy định cụ thể 07 trường hợp không được thực hiện thẩm định giá, cụ thể: Doanh nghiệp thẩm định giá đang trong thời gian bị đình chỉ hoặc tạm ngừng hoạt động; mua, bán tài sản thuộc danh mục bí mật Nhà nước; doanh nghiệp thẩm định giá và khách hàng thẩm định giá có các mối quan hệ điều hành, kiểm soát, góp vốn dưới mọi hình thức hoặc có thỏa thuận hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng...

Cũng theo Nghị định này, tỷ lệ vốn góp của các thành viên, cổ đông sáng lập trong công ty trách nhiệm hữu hạn thẩm định giá hai thành viên trở lên và công ty cổ phần thẩm định giá là tổ chức cũng bị giới hạn ở mức tối đa 35% vốn điều lệ của công ty. Trường hợp có nhiều tổ chức góp vốn thì tổng số vốn góp của các tổ chức tối đa bằng 35% vốn điều lệ của công ty. Hơn nữa, người đại diện của các tổ chức thành viên phải là thẩm định viên về giá, đồng thời không được tham gia góp vốn vào doanh nghiệp thẩm định đó với tư cách cá nhân hoặc đại diện cho tổ chức góp vốn thành lập doanh nghiệp thẩm định giá khác.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25 tháng 9 năm 2013, bãi bỏ Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 03/08/2005 và các quy định trái với Nghị định này.

Trích tối thiểu 8% nguồn thu học phí cho quỹ học bổng

Đây là nội dụng của Thông tư 31/2013/TT-BGDĐT về việc sửa đổi, bổ sung Khoản 3 Điều 2 Quyết định 44/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15/08/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về học bổng khuyến khích học tập đối với học sinh, sinh viên trong các trường chuyên, trường năng khiếu, các cơ sở giáo dục đại học và trung cấp chuyên nghiệp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.

Thông tư này chỉ rõ quỹ học bổng khuyến khích học tập được bố trí tối thiểu bằng 8% nguồn thu học phí hệ giáo dục chính quy đối với các trường công lập và tối thiểu bằng 2% nguồn thu học phí hệ giáo dục chính quy đối với các trường ngoài công lập. Đối với các trường sư phạm và các ngành nghề đào tạo không thu học phí thì quỹ học bổng được trích tối thiểu bằng 8% nguồn ngân sách Nhà nước cấp bù học phí.

Trước đó, tại khoản 3 Điều 2 Quyết định 44/2007/QĐ-BGDĐT, Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị các trường công lập trích tối thiểu 15% từ nguồn thu học phí hệ chính quy và các trường ngoài công lập trích 5% từ nguồn thu học phí hệ chính quy cho quỹ học bổng; các trường sư phạm và các ngành nghề đào tạo không thu học phí thì trích tối thiểu bằng 15% từ nguồn học phí do Nhà nước cấp bù.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/09/2013.

Hạn mức chi trả của Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm là 200 triệu/người/hơp đồng

Nội dung này được quy định tại Thông tư số 101/2013/TT-BTC ngày 30/07/2013 của Bộ Tài chính về hướng dẫn việc quản lý, sử dụng Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm (sau đây gọi tắt là Quỹ).

Theo đó, đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và hợp đồng bảo hiểm sức khỏe, Quỹ chi trả tối đa 90% mức trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH), chi nhánh nước ngoài nhưng không quá 200 triệu đồng/người được bảo hiểm/hợp đồng. Trường hợp hợp đồng bảo hiểm có nhiều người được bảo hiểm, hạn mức chi trả tối đa này được áp dụng đối với từng người được bảo hiểm, trừ trường hợp giữa những người được bảo hiểm và DNBH, chi nhánh nước ngoài có thỏa thuận khác tại hợp đồng bảo hiểm.

Riêng đối với hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, Quỹ chi trả tối đa mức trách nhiệm của DNBH, chi nhánh nước ngoài thuộc phạm vi bảo hiểm theo quy định của pháp luật hiện hành. Còn với hợp đồng bảo hiểm thuộc các nghiệp vụ bảo hiểm khác, Quỹ chi trả tối đa 80% mức trách nhiệm của DNBH, chi nhánh nước ngoài nhưng không quá 100 triệu đồng/hợp đồng.

Ngoài ra, Thông tư cũng quy định rõ nguyên tắc chi trả của Quỹ, cụ thể: Quỹ được sử dụng để trả tiền bảo hiểm, giá trị hoàn lại, tiền bồi thường bảo hiểm, hoàn phí bảo hiểm trong trường hợp DNBH, chi nhánh nước ngoài mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản; và chỉ chi trả đối với hợp đồng bảo hiểm gốc và chi trả một lần đối với mỗi hồ sơ yêu cầu.

Bên cạnh đó, Bộ Tài chính quy định số tiền trích nộp Quỹ tối đa không vượt quá 0,3% tổng doanh thu phí bảo hiểm giữ lại thuộc các hợp đồng bảo hiểm gốc trong năm tài chính trước liền kề của DNBH, chi nhánh nước ngoài. Mức trích nộp cụ thể do Bộ Tài chính công bố bằng văn bản trước ngày 30/04 hàng năm...

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/09/2013.

Miễn học phí cho con của sĩ quan, chiến sĩ công an

Đây là nội dung nổi bật của Nghị định 87/2013/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 30/07/2013 quy định về chế độ, chính sách đối với gia đình, thân nhân hạ sĩ quan, chiến sĩ đang phục vụ có thời hạn trong Công an nhân dân.

Cụ thể, từ ngày 14/09/2013, con đẻ, con nuôi hợp pháp của hạ sĩ quan, chiến sĩ được miễn học phí khi học ở các cơ sở giáo dục mần non và phổ thông công lập, ngoài công lập theo quy định của pháp luật hiện hành về chế độ, miễn giảm học phí.

Nghị định này cũng chỉ rõ, ngân sách Nhà nước trợ cấp 2.000.000 đồng/suất/lần trong trường hợp gia đình hạ sĩ quan, chiến sĩ gặp tai nạn, hỏa hoạn, thiên tai dẫn đến bị sập nhà, trôi nhà, cháy nhà hoặc phải di dời chỗ ở; trợ cấp 500.000 đồng/suất cho bố, mẹ đẻ; bố, mẹ vợ hoặc chồng; người nuôi dưỡng hợp pháp; vợ hoặc chồng, con đẻ, con nuôi hợp pháp của hạ sĩ quan, chiến sĩ bị ốm đau từ 01 tháng trở lên hoặc điều trị 01 lần tại bệnh viện từ 07 ngày trở lên; trợ cấp 1.000.000 đồng/suất nếu bố, mẹ đẻ; bố, mẹ vợ hoặc chồng, người nuôi dưỡng hợp pháp; vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi hợp pháp của hạ sĩ quan, chiến sĩ bị từ trần, mất tích.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 14/09/2013 và bãi bỏ Nghị định 54/2008/NĐ-CP ngày 24/04/2008.

Thành lập Trung tâm pháp y tâm thần khu vực trước 2015

Ngày 29/07/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 85/2013/NĐ-CP về việc quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp.

Nội dung Nghị định này quy định cụ thể về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức giám định tư pháp công lập, bao gồm: Viện pháp y quốc gia thuộc Bộ Y tế; Trung tâm pháp y cấp tỉnh; Viện pháp y quân đội thuộc Bộ Quốc phòng; Trung tâm giám định pháp y thuộc Viện khoa học hình sự, Bộ Công an; Viện pháp y tâm thần Trung ương thuộc Bộ Y tế; Trung tâm pháp y tâm thần khu vực thuộc Bộ Y tế; Viện khoa học hình sự thuộc Bộ Công an; Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh và Phòng Giám định kỹ thuật hình sự thuộc Bộ Quốc phòng.

Trong đó, Chính phủ yêu cầu trong thời hạn 02 năm, kể từ ngày Luật Giám định tư pháp có hiệu lực (tức trước ngày 01/01/2015), phải thành lập Trung tâm pháp y tâm thần khu vực thuộc Bộ Y tế, có chức năng thực hiện giám định pháp y tầm thần; nghiên cứu khoa học về chuyên ngành pháp y tâm thần; báo cáo Bộ Y tế và Viện pháp y tâm thần Trung ương theo định kỳ hàng năm…

Ngoài ra, Nghị định cũng quy định chi tiết về thành lập, đăng ký hoạt động của văn phòng giám định tư pháp; theo đó, văn phòng giám định tư pháp được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Giám định tư pháp, Luật doanh nghiệp và các quy định liên quan, theo hình thức doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh (ngoài các thành viên hợp danh phải là giám định viên, văn phòng có thể có thành viên góp vốn). Các văn phòng giám định có quyền thực hiện dịch vụ giám định ngoài tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức; được thu phí giám định và được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế theo quy định…

Nghị định cũng quy định rõ, văn phòng giám định tư pháp bị thu hồi Giấy đăng ký hoạt động khi không còn đủ giám định viên tư pháp theo quy định; thực hiện giám định tư pháp không đúng lĩnh vực đã đăng ký; vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính lần thứ hai mà còn tái phạm...

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/09/2013.

Tăng 0,8 lần hệ số tiền lương cho cán bộ Cục Hàng hải

Ngày 26/07/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 46/2013/QĐ-TTg về việc thí điểm áp dụng một số chế độ chi đặc thù của Cục Hàng hải Việt Nam.

Theo Quyết định này, từ năm 2013 đến hết năm 2017, tiến hành thí điểm điều chỉnh một số chế độ chi đặc thù về tiền lương, tiền thưởng, trang phục công tác của Cục Hàng hải Việt Nam đối với cán bộ, công chức, viên chức tại cơ quan Văn phòng Cục, 02 Chi cục Hàng hải và lực lượng thanh tra chuyên ngành hàng hải.

Trong đó, tiền lương bình quân được áp dụng hệ số tiền lương 1,8 lần mức lương đối với cán bộ, công chức, viên chức do Nhà nước quy định (gồm lương ngạch, bậc và các loại phụ cấp,trừ chế độ trả lương theo giờ làm việc vào ban đêm, làm thêm giờ). Mức thưởng an toàn, an ninh hàng hải được áp dụng mức 15% lương cấp bậc, chức vụ (không bao gồm các khoản phụ cấp) cho cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác quản lý, giám sát, bảo đảm an toàn, an ninh hàng hải...

Thủ tướng cũng quy định kinh phí bảo đảm chế độ chi đặc thù nêu trên được bố trí từ nguồn thu phí cảng vụ hàng hải để lại chi theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/09/2013 và áp dụng cho các năm ngân sách từ năm 2013 đến năm 2017.

Phân cấp công trình xây dựng

Ngày 25/07/2013, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư số 10/2013/TT-BXD quy định chi tiết một số nội dung về quản lý chất lượng công trình xây dựng, trong đó đáng chú ý là quy định về các tiêu chí phân cấp công trình xây dựng.

Theo Thông tư này, Bộ Xây dựng phân loại các loại công trình xây dựng theo 05 cấp: Cấp đặc biệt, cấp I, cấp II, cấp III và cấp IV dựa trên các tiêu chí về số tầng, chiều cao, sức chứa, tầm quan trọng, quy mô hoặc theo độ bền vững và bậc chịu lửa của công trình.

Cụ thể, đối với các công trình dân dụng, nhà chung cư được phân theo 03 cấp (cấp III có từ 2 - 7 tầng, cấp II có từ 8 - 20 tầng, cấp I có trên 20 tầng); nhà biệt thự phân theo 02 cấp (cấp III có từ 6 tầng trở xuống, cấp II có trên 6 tầng);  trường đại học, cao đẳng và trường trung học chuyên nghiệp... được phân theo 03 cấp (cấp III cao dưới 28m, cấp II từ 28 - 75m, cấp I cao trên 75m); với các công trình văn hóa, bảo tàng, thư viện, triển lãm, nhà trưng bày được phân theo 03 cấp (cấp I gồm các công trình cấp quốc gia, cấp II gồm công trình cấp tỉnh ngành và cấp III là số còn lại); các công trình di tích được phân theo 04 cấp (trong đó, cấp đặc biệt gồm các di sản quốc gia đặc biệt và di sản thế giới...)

Việc phân cấp các loại công trình nêu trên là cơ sở để thực hiện các công việc như: quy định đối tượng công trình phải lập chỉ dẫn kỹ thuật; quy định về việc công bố thông tin năng lực của các tổ chức, cá nhân hoạt động xây dựng công trình; đối tượng công trình phải được thẩm tra thiết kế và kiểm tra công tác nghiệm thu đưa công trình vào sử dụng; hoặc về phân cấp sự cố, giải quyết sự cố trong quá trình thi công xây dựng và thời hạn bảo hành công trình xây dựng...

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 09/09/2013; thay thế Thông tư số 27/2009/TT-BXD ngày 31/07/2009; số 02/2006/TT-BXD ngày 17/05/2006 và các nội dung về chứng nhận đủ điều kiện đảm bảo an toàn chịu lực, chứng nhận sự phù hợp về chất lượng công trình xây dựng quy định tại Thông tư 03/2011/TT-BXD ngày 06/04/2011.

Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ tư vấn du học tối thiểu 265 tiết

Ngày 25/07/2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Thông tư số 29/2013/TT-BGDĐT ban hành Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ tư vấn du học.

Với mục tiêu trang bị, cập nhật, cung cấp các kiến thức cơ bản về pháp luật giáo dục, kiến thức chuyên môn, các kỹ năng nghiệp vụ cần thiết cho những đối tượng thực hiện hoạt động dịch vụ tư vấn du học, Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ tư vấn du học có tổng khối lượng kiến thức tối thiểu 265 tiết, bao gồm 225 tiết (63 tiết học tập trung, 162 tiết tự học) đối với kiến thức bắt buộc và 40 tiết (10 tiết học tập trung và 30 tiết tự học) đối với kiến thức tự chọn.

Trong đó, nội dung bắt buộc sẽ gồm 03 chuyên đề: Chuyên đề về tổng quan chính sách, pháp luật về giáo dục và hoạt động tư vấn du học; Chuyên đề về hệ thống giáo dục Việt Nam và một số nước trên thế giới, liên quan đến mốt số vấn đề về công nhận văn bằng của Việt Nam và nước ngoài; Chuyên đề về nghiệp vụ tư vấn du học. Phần nội dung tự chọn, học viên được chọn 02 trong 04 nội dung sau: Tổ chức sự kiện giáo dục quốc tế; phát triển giáo dục quốc tế; hồ sơ tài chính và thị thực du học và giải quyết tranh chấp.

Bộ cũng chỉ rõ, các đối tượng chưa qua bồi dưỡng nghiệp vụ tư vấn du học phải được học đầy đủ phần nội dung kiến thức bắt buộc tối thiểu của Chương trình bồi dưỡng này; riêng các đối tượng đã có Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ tư vấn du học của nước ngoài cấp thì được miễn trừ các phần kiến thức tương đương.

Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 09/09/2013.

Định mức lợi nhuận tối đa 15% đối với nhà ở thương mại làm nhà ở tái định cư

Đây là quy định của Chính phủ tại Nghị định 84/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về phát triển và quản lý nhà ở tái định cư.

Theo Nghị đinh này, Chính phủ quy định 03 hình thức phát triển nhà ở tái định cư là: Đầu tư xây dựng trực tiếp; đầu tư theo hình thức hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (gọi tắt là hợp đồng BT) hoặc mua nhà ở thương mại để bố trí tái định cư.

Riêng đối với hình thức mua nhà ở thương mại để bố trí tái định cư, chủ đầu tư khu nhà ở tái định cư có trách nhiệm chuẩn bị quỹ nhà ở tái định cư, lập phương án mua nhà ở thương mại làm nhà ở tái định cư, số lượng nhà, dự kiến giá mua... trình UBND cấp tỉnh phê duyệt. Trong đó, giá mua nhà ở thương mại làm nhà ở tái định cư đề xuất phải theo nguyên tắc: Trường hợp đất xây dựng nhà ở do Nhà nước trực tiếp quản lý hoặc bồi thường thì giá mua bao gồm chi phí đầu tư xây dựng nhà, lãi vay (nếu có), các chi phí hợp pháp khác và lợi nhuận định mức tối đa 15%; trường hợp đất xây dựng nhà ở do chủ đầu tư tự bồi thường thì giá bao gồm chi phí bồi thường, giải phóng mặt bằng, chi phí đầu tư xây dựng, lãi vay (nếu có), các chi phí hợp pháp khác và lợi nhuận định mức tối đa 10%.

Cũng tại Nghị định này, Chính phủ quy định việc phát triển nhà ở tái định cư phải tuân theo những nguyên tắc như: Phải tuân thủ quy hoạch xây dựng đã được phê duyệt, nhà ở tái định cư phải có điều kiện ở, sinh hoạt và sản xuất tốt hơn hoặc tương đương nơi ở cũ; đảm bảo chất lượng và an toàn trong sử dụng và phù hợp với văn hóa, tập quán của địa phương...

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 30/09/2013

Giám sát chặt chẽ kinh phí hỗ trợ nhà ở cho người có công

Đây là yêu cầu của Bộ Tài chính tại Thông tư số 98/2013/TT-BTC ngày 24/07/2013 về việc hướng dẫn việc quản lý, cấp phát, thanh toán và quyết toán nguồn vốn hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở theo Quyết định 22/2013/QĐ-TTg ngày 26/04/2013 về hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở.

Theo Thông tư này, nguồn vốn hỗ trợ về nhà ở (40 triệu đồng/hộ đối với trường hợp nhà ở hiện bị hư hỏng nặng phải phá dỡ để xây dựng lại mới và 20 triệu đồng/hộ đối với trường hợp phải sửa chữa khung, tường và thay mới mái nhà hiện có) được lấy chủ yếu từ ngân sách Trung ương với các mức cụ thể như sau: Hỗ trợ 100% đối với các địa phương nhận bổ sung cân đối từ ngân sách Trung ương trên 70% dự toán chi cân đối ngân sách địa phương; hỗ trợ 95% đối với địa phương nhận bổ sung cân đối từ 50 - 70%; hỗ trợ 90% đối với địa phương nhận bổ sung cân đối dưới 50% và 80% đối với các địa phương còn lại.

Việc lập dự toán, cấp phát, thanh toán và quyết toán kinh phí hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở được thực hiện theo quy định hiện hành; trong đó, sau khi UBND cấp huyện phân bổ kinh phí hỗ trợ và cấp kinh phí ủy quyền cho UBND cấp xã, UBND cấp xã thực hiện rút dự toán tại Kho bạc Nhà nước để tạm ứng lần đầu hoặc thanh toán kinh phí hỗ trợ cho các hộ gia đình, với mức tạm ứng không vượt quá 60% mức ngân sách Nhà nước hỗ trợ.

Đồng thời, UBND cấp xã cũng có trách nhiệm giám sát để các hộ gia đình sử dụng tiền hỗ trợ nhà ở cho người có công đúng mục đích, đảm bảo chất lượng nhà ở sau khi xây dựng sửa chữa...

Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 15/09/2013.

Xóa nợ tiền thuế cho một số đối tượng

Đây là một trong những nội dung đáng chú ý được quy định tại Nghị định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/07/2013 của Chính phủ về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế.


Theo đó, Chính phủ quy định xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đối với các trường hợp sau: Doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản đã thực hiện các khoản thanh toán theo quy định của pháp luật phá sản mà không còn tài sản để nộp tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt; Cá nhân được pháp luật coi là đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự mà không còn tài sản để nộp tiền thuế hoặc các khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đã quá 10 năm kể từ ngày hết hạn nộp thuế mà cơ quan quản lý thuế đã áp dụng tất cả các biện pháp cưỡng chế nhưng không thu đủ. Riêng việc xóa nợ đối với tiền sử dụng đất và tiền thuê đất vẫn được thực hiện theo pháp luật đất đai.

Ngoài ra, Chính phủ cũng xóa nợ các khoản tiền thuế, tiền phạt không có khả năng thu hồi phát sinh trước ngày 01/07/2007 cho các trường hợp: Hộ gia đình, cá nhân gặp khó khăn, không thanh toán được số tiền thuế nợ và đã ngừng kinh doanh; Doanh nghiệp Nhà nước đã có quyết định giải thể của cơ quan có thẩm quyền hoặc đã thực hiện cổ phần hóa và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thành lập pháp nhân mới...

Cũng theo Nghị định này, Chính phủ quy định 04 trường hợp được gia hạn nộp thuế; trong đó, thời gian gia hạn tối đa không quá 02 năm đối với trường hợp bị thiệt hại vật chất do gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ; không quá 01 năm đối với trường hợp phải ngưng hoạt động do di dời cơ sở sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước; chưa được thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo dự toán ngân sách Nhà nước hoặc không có khả năng nộp thuế đúng hạn do nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu có chu kỳ sản xuất, dự trữ dài hơn 275 ngày...

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/09/2013 và thay thế các Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 và số 106/2010/NĐ-CP ngày 28/10/2010.

Phạt đến 20 triệu đối với vi phạm về mã số mã vạch

Ngày 19/07/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 80/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

Theo Nghị định này, mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực đo lường đối với cá nhân là 100 triệu đồng, đối với tổ chức là 200 triệu đồng; mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm, hàng hóa đối với cá nhân là 150 triệu đồng đối với tổ chức là 300 triệu đồng (ngoại trừ một số trường hợp, mức tiền phạt sẽ căn cứ vào số tiền thu lợi bất hợp pháp từ hành vi vi phạm).

Trong đó, về các vi phạm quy định về sử dụng mã số mã vạch hàng hóa, áp dụng mức phạt từ 6 - 10 triệu đồng đối với hành vi sử dụng mã vạch có đầu mã quốc gia Việt Nam chưa được cấp hoặc sử dụng trái phép mã số mã vạch của doanh nghiệp khác đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng mã số mã vạch; từ 10 - 20 triệu đồng đối với hành vi sử dụng mã số mã vạch nước ngoài để in trên sản phẩm, hàng hóa sản xuất tại Việt Nam mà chưa được cho phép...

Về vi phạm chất lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường, áp dụng mức phạt từ 2 - 80 triệu đồng đối với hành vi gian lận về thời hạn sử dụng của hàng hóa trên nhãn hàng hóa có giá trị từ 5 - 100 triệu đồng; phạt tiền từ 1 - 2 lần tổng giá trị sản phẩm, hàng hóa vi phạm tại thời điểm vi phạm đối với hành vi bán sản phẩm, hàng hó có chất lượng không phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng; từ 2 - 3 lần giá trị tổng sản phẩm, hàng hóa đối với hành vi thay thế, đánh tráo, thêm, bớt thành phần hoặc chất phụ gia, pha trộn tạp chất làm giảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa so với tiểu chuẩn...

Ngoài hình thức phạt tiền, các đối tượng vi phạm có thể bị áp dụng dụng 01 hoặc các hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả như: Tước quyền sử dụng có thời hạn Giấy chứng nhận hợp chuẩn, Giấy chứng nhận hợp quy...; đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật, phương tiên vi phạm; buộc tái chế, tái xuất, tiêu hủy hoặc thu hồi sản phẩm, hàng hóa vi phạm...

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/09/2013 và thay thế Nghị định số 54/2009/NĐ-CP ngày 05/06/2009.

Người nhập cảnh được mua hàng miễn thuế tại sân bay

Đây là nội dung mới được quy định tại Quyết định số 44/2013/QĐ-TTg ngày 19/07/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế về kinh doanh bán hàng miễn thuế ban hành kèm theo Quyết định số 24/2009/QĐ-TTg ngày 17/12/2009.

Tại Quyết định này, Thủ tướng bổ sung thêm địa điểm đặt cửa hàng miễn thuế ở cửa khẩu quốc tế sân bay để phục vụ người nhập cảnh (không bao gồm người điều khiển và nhân viên phục vụ trên phương tiện vận chuyển nhập cảnh) nằm trong khu vực quản lý, kiểm tra, kiểm soát của cơ quan Hải quan.

Theo đó, ngay sau khi hoàn thành thủ tục nhập cảnh, người nhập cảnh phải xuất trình hộ chiếu có đóng dấu nhập cảnh, thẻ lên tàu bay để được mua hàng miễn thuế và chỉ được mua hàng miễn thuế theo định mức hành lý miễn thuế quy định tại Nghị định số 66/2002/NĐ-CP ngày 01/07/2002. Người nhập cảnh không được mua hàng miễn thuế sau khi đã ra khỏi khu vực quản lý, kiểm tra, kiểm soát của cơ quan Hải quan tại cửa khẩu quốc tế sân bay nhập cảnh.

Cũng theo Quyết định này, Thủ tướng quy định đồng tiền dùng trong giao dịch tại các cửa hàng miễn thuế phải là đồng Việt Nam, các đồng ngoại tệ tự do chuyển đổi theo quy định hoặc đồng tiền các nước chung biên giới ở các cửa hàng miễn thuế tại khu vực biên giới (thay vì quy định chỉ dùng đồng Việt Nam và các đồng ngoại tệ USD, EURO như quy định hiện hành).

Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/09/2013

Tiết lộ thông tin thống kê bị phạt đến 30 triệu đồng

Ngày 19/07/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 79/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê.

Theo Nghị định này, mức xử phạt tối thiểu là 300.000 đồng được áp dụng đối với cá nhân thực hiện các hành vi như: Nộp chậm phiếu, biểu điều tra thống kê theo phương pháp điều tra gián tiếp dưới 05 ngày so với thời hạn quy định của phương án điều tra thống kê; ghi không đủ các thông tin có phát sinh vào phiếu, biểu điều tra… Mức phạt tối đa là 30.000.000 triệu đồng đối với cá nhân tiết lộ thông tin thống kê gắn với tên, địa chỉ cụ thể của từng cá nhân, tổ chức khi chưa được sự đồng ý của cá nhân, tổ chức đó; thực hiện hành vi điều tra ngoài hệ thống tổ chức thống kê Nhà nước không có quyết định điều tra, phương án điều tra hoặc lợi dụng điều tra thống kê làm phương hại đến lợi ích quốc gia mà chưa tới mức truy cứu trách nhiệm hình sự; phổ biến thông tin thống kê sai sự thật. Với cùng một hành vi vi phạm, mức phạt tiền đối với tổ chức gấp 02 đối với cá nhân.

Nghị định cũng chỉ rõ, ngoài hình thức xử phạt vi phạm bằng tiền nêu trên, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm trong lĩnh vực thống kê còn phải thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả như: Buộc hủy bỏ báo cáo thống kê; buộc đình chỉ cuộc điều tra thống kê, thu hồi phiếu, biểu điều tra thống kê; buộc hủy bỏ quyết định điều tra, phương án điều tra; buộc hủy bỏ phiếu, biểu điều tra thống kê và buộc hủy kết quả điều tra thống kê; buộc khôi phục lại phiếu, biểu điều tra, báo cáo thống kê còn khả năng khôi phục; buộc đính chính nguồn gốc những thông tin thống kê đã trích dẫn, phổ biến, đăng tải.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày kể từ ngày 05/09/2013 và thay thế Nghị định số 14/2005/NĐ-CP ngày 04/02/2005.

9 nhóm đối tượng phải kê khai tài sản, thu nhập

Nhằm phục vụ cho công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức, góp phần phòng ngừa và ngăn chặn hành vi tham nhũng, ngày 17/07/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2013/NĐ-CP về minh bạch tài sản, thu nhập.

Theo đó, thay vì quy định 10 nhóm đối tượng có nghĩa vụ phải kê khai tài sản, thu nhập theo quy định hiện hành, Nghị định mới xác định cụ thể 09 nhóm đối tượng phải kê khai, công khai, giải trình bao gồm: Đại biểu Quốc hội, HĐND chuyên trách; Cán bộ, công chức từ Phó trưởng phòng của UBND cấp huyện trở lên và người được hưởng phụ cấp chức vụ tương đương; Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên, người giữ chức vụ tương đương Phó trưởng phòng trở lên trong các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề của Nhà nước...

Đặc biệt, tại Nghị định này, Chính phủ bổ sung danh mục các công việc mà người (dù không giữ chức vụ quản lý trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân) làm công tác quản lý ngân sách, tài sản hoặc trực tiếp tiếp xúc, giải quyết cũng phải kê khai tài sản, thu nhập, cụ thể: Người quản lý ngân sách, tài sản trong cơ quan, đơn vị kế toán, mua sắm công, phân bổ ngân sách; người trực tiếp giải quyết việc tổ chức tuyển dụng, thi ngạch cán bộ, công chức, viên chức, quản lý các đối tượng nộp thuế...

Ngoài ra, Nghị định cũng quy định chi tiết các tài sản, thu nhập phải kê khai, bao gồm: Các loại nhà, công trình xây dựng; các quyền sử dụng đất; tài sản ở nước ngoài; ô tô, mô tô, xe máy, tàu, thuyền và những động sản khác mà Nhà nước quản lý có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên; các khoản nợ phải trả có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên và tổng thu nhập trong năm...

Việc kê khai tài sản, thu nhập phải hoàn thành chậm nhất là ngày 31/12 hằng năm.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 05/09/2013 và thay thế Nghị định số 37/2007/NĐ-CP ngày 09/03/2007, Nghị định số 68/2011/NĐ-CP ngày 08/08/2011.

Quán game phải cách trường học tối thiểu 200 m

Ngày 15/07/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 72/2013/NĐ-CP quy định về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng.

Theo Nghị định này, các tổ chức, cá nhân chỉ được thiết lập điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng khi có Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động điểm cung cấp dịch vụ trò chơi công công; các điều kiện này bao gồm: Có đăng ký kinh doanh điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng; địa điểm cung cấp dịch vụ phải cách cổng trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông từ 200m trở lên và có biển hiệu “Điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng”, với tổng diện tích các phòng máy tối thiểu 50 m2 tại các đô thị loại đặc biệt, loại I, II, III; tối thiểu 40 m2 tại đô thị loại IV và tối thiểu 30 m2 tại các khu vực khác...

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng yêu cầu chủ điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện từ công cộng phải có bảng niêm yết công khai nội quy sử dụng dịch vụ trò chơi điện tử tại nơi mọi người dễ nhận biết và không được hoạt động từ 22 giờ đêm đến 8 giờ sáng hôm sau.

Ngoài ra, cũng theo Nghị định này, tổ chức, doanh nghiệp được cấp Giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp, Giấy phép thiết lập mạng xã hội phải có đủ các điều kiện sau: Có đăng ký kinh doanh ngành nghề phù hợp với dịch vụ và nội dung thông tin cung cấp; đã đăng ký tên miền sử dụng và có ít nhất 01 máy chủ đặt tại Việt Nam để thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp, mạng xã hội. Cả 02 loại giấy phép này đều có thời hạn tối đa không quá 10 năm.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/09/2013; thay thế Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28/08/2008; các Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-BCVT-VHTT-CA-KHĐT ngày 14/07/2005 và số 60/2006/TTLT-BVHTT-BBCVT-BCA ngày 01/06/2006.

Bổ sung 3 đối tượng được miễn học phí

Ngày 15/07/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định 74/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định 49/2010/NĐ-CP ngày 14/05/2010 quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm 2010 - 2011 đến năm học 2014 - 2015.

Theo đó, nhằm khuyến khích, tạo điều kiện học tập cho học sinh, sinh viên, Chính phủ quyết định bổ sung thêm 03 đối tượng được miễn học phí, bao gồm: Sinh viên viên học chuyên ngành Mác - Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh; học sinh, sinh viên, học viên các chuyên ngành lao, phong, tâm thần, pháp y và giải phẫu bệnh; học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số rất ít người, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.

Đồng thời, trẻ em học mẫu giáo và học sinh phổ thông có cha mẹ thuộc cận nghèo; học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở đi học nghề hoặc học trung cấp chuyên nghiệp sẽ được giảm 50% học phí. Học sinh, sinh viên các chuyên ngành nhã nhạc cung đình, chèo tuồng, cải lương, múa xiếc; một số nghề học nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm sẽ được giảm 70% học phí.

Ngoài ra, Nghị định này cũng yêu cầu các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học công lập phải công khai mức học phí cho từng năm học và dự kiến cả khóa học để người học biết trước khi tổ chức tuyển sinh. Bên cạnh đó, các cơ sở mầm non, trường phổ thông công lập chất lượng cao được chủ động xây dựng mức học phí tương xứng để trang trải chi phí đào tạo nhưng phải được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho phép và phải thực hiện Quy chế công khai do Bộ GDĐT quy định; học phí theo phương thức giáo dục thường xuyên không vượt quá 150% mức học phí chính quy cùng cấp học và cùng nhóm ngành nghề đào tạo…

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/09/2013.

Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý chất lượng bệnh viện trước 2015

Đây là lộ trình được Bộ Y tế lập ra tại Thông tư số 19/2013/TT-BYT ngày 12/07/2013 về việc hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh tại bệnh viện.

Theo lộ trình này, trong giai đoạn 2013 - 2015, tiến hành hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý chất lượng tại các Sở Y tế, Y tế ngành và các bệnh viện; mỗi bệnh viện tổ chức hoặc cử nhân viên tham dự các khóa đào tạo, huấn luyện, tập huấn, bồi dưỡng về quản lý chất lượng do các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước thực hiện; đồng thời, khuyến khích các bệnh viện áp dụng thí điểm các mô hình, phương pháp chất lượng và các bộ tiêu chuẩn quản lý chất lượng do Bộ Y tế ban hành hoặc thừa nhận để tự đánh giá và cải tiến chất lượng.

Trong đó, hệ thống quản lý chất lượng trong bệnh viện gồm: Hội đồng quản lý chất lượng bệnh viện do giám đốc bệnh viện làm chủ tịch; phòng/tổ quản lý chất lượng; nhân viên chuyên trách về quản lý chất lượng hoặc mạng lưới quản lý chất lượng phù hợp với quy mô của bệnh viện. Hệ thống này có chức năng phát hiện các vấn đề chất lượng, các nguy cơ tiềm ẩn đối với an toàn người bệnh, xác định các hoạt động ưu tiên và đề xuất các đề án bảo đảm, cải tiến chất lượng và an toàn người bệnh với Giám đốc bệnh viện; đồng thời giúp triển khai bộ tiêu chí, tiêu chuẩn quản lý chất lượng do Bộ Y tế ban hành (hoặc thừa nhận) phù hợp với điều kiện của bệnh viện...

Đối với  giai đoạn 2016 - 2018, các bệnh viện đánh giá hiệu quả việc áp dụng các bộ tiêu chí, tiêu chuẩn, chỉ số, mô hình, phương pháp chất lượng; tự nguyện đăng ký với tổ chức chứng nhận chất lượng để đánh giá và công nhận chất lượng bệnh viện...

Thông tư này có hiệu lực từ ngày 15/09/2013.

Vận động viện trợ từ tổ chức phi Chính phủ nước ngoài

Ngày 10/07/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình quốc gia xúc tiến vận động viện trợ phi Chính phủ nước ngoài giai đoạn 2013 - 2017 tại Quyết định số 40/2013/QĐ-TTg, nhằm tăng cường huy động, khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài, góp phần giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.

Theo định hướng được đề ra tại Chương trình này, việc xúc tiến vận động viện trợ phi Chính phủ nước ngoài sẽ tập trung vào các lĩnh vực mà các tổ chức phi chính phủ nước ngoài có lợi thế và được Chính phủ Việt Nam ưu tiên kêu gọi viện trợ, như:  Nông, lâm, ngư ngiệp và phát triển nông thôn; y tế; giáo dục và đào tạo; dạy nghề và hướng nghiệp; giải quyết các vấn đề xã hội; môi trường; khắc phục hậu quả chiến tranh; phòng, giảm nhẹ thiên tai và cứu trợ khẩn cấp; văn hóa, thể thao; ứng phó với biến đổi khí hậu…

Đồng thời, vận động viện trợ phi Chính phủ nước ngoài cũng ưu tiên hướng tới các tỉnh nghèo, các tỉnh miền núi, nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Trong đó, tập trung đào tạo, dạy nghề, phát triển ngành nghề thủ công, tạo cơ hội việc làm và thu nhập phi nông nghiệp; khuyến khích các dự án hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững; hỗ trợ các chương trình tài chính vi mô; phát triển khuyến nông, khuyến lâm; phát triển hạ tầng sản xuất quy mô nhỏ như các công trình thủy lợi, trạm bơm, đường liên thôn; đào tạo cán bộ y tế, giáo viên các cấp…

Từ những định hướng nêu trên, Thủ tướng nhấn mạnh cần bổ sung, sửa đổi hệ thống văn bản pháp quy liên quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức phi chính phủ nước ngoài vào hoạt động và triển khai viện trợ tại Việt Nam; tăng cường hợp tác, cung cấp thông tin nhằm giới thiệu các nhu cầu của Việt Nam với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài; tăng cường nguồn nhân lực trong công tác phi chính phủ nước ngoài…

Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/09/2013.

Hỗ trợ người tham gia Hội chữ thập đỏ bị tai nạn

Ngày 09/07/2013, Liên bộ Bộ Nội vụ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BTC-BYT hướng dẫn quy trình, thủ tục, hồ sơ, mức hỗ trợ người đang trực tiếp tham gia hoạt động chữ thập đỏ bị tai nạn dẫn đến thiệt hại về sức khỏe (sau này gọi là người bị tai nạn).

Theo đó, người bị tai nạn sẽ được hỗ trợ chi phí y tế cho việc cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc bị giảm sút. Cụ thể, trường hợp người bị tai nạn có tham gia bảo hiểm y tế thì được thanh toán chi phí y tế theo quy định hiện hành về bảo hiểm y tế; người không gia bảo hiểm y tế được hỗ trợ 80% chi phí y tế từ Quỹ bảo hiểm y tế.

Đồng thời, người bị tai nạn còn được hỗ trợ thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; nếu người bị tai nạn có tham gia bảo hiểm xã hội thì mức hỗ trợ tính theo mức lương, tiền công đang tham gia đóng bảo hiểm xã hội và thu nhập thực tế ổn định khác của tháng liền kề chia theo ngày trước khi bị tai nạn nhân với số ngày cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc bị giảm sút. Trường hợp người bị tai nạn không tham gia bảo hiểm xã hội thì mức hỗ trợ tính theo thu nhập bình quân hàng tháng của 03 tháng liền kề trước khi bị tai nạn chia theo ngày nhân với thời gian cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút… Mức hỗ trợ 01 lần bằng mức thu nhập bị mất hoặc giảm sút nhưng tối đa không quá 30 lần mức thu nhập thực tế bị mất của người bị tai nạn.

Thông tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/09/2013.

Minh Thi (Tổng hợp từ LuatVietnam)

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Truy câp tổng 9.276.984
Truy câp hiện tại 2.586